Đó là một nguyên tắc giao dịch được các nhà cung cấp thực phẩm đặc biệt sử dụng và nó đề cập đến một nhóm thương nhân, mỗi người chuyên kinh doanh một số món ăn hạn chế - đôi khi chỉ một món ăn - những người này tổng hợp các nguồn lực của họ để cung cấp cho khách hàng tiềm năng nhiều sự lựa chọn hơn. Hoạt động này còn được gọi đơn giản là 'hiệp hội' (của những người bán hàng rong) vì những người bán hàng này liên kết với nhau theo kiểu hợp tác.
Việt Nam là một xã hội được thúc đẩy bởi các doanh nhân và các doanh nhân nhỏ chiếm một phần trong đó. Kể từ cuộc cải cách năm 1986 được gọi là Đổi Mới (đổi mới), sáng kiến tư nhân đã được khuyến khích trong một số lĩnh vực, cho phép tư nhân thuê đất và tinh thần kinh doanh đã phát triển mạnh mẽ.
Phụ nữ đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của doanh nghiệp ở Việt Nam (Leshkowich 2011 [1], 2015 [2]) và đặc biệt là trong kinh doanh nhỏ và siêu nhỏ. Điều này đề cập đến một hoạt động rất nhỏ, thường giới hạn cho một người, với doanh thu thấp. Từ sở hữu mô tô-taxi đến cung cấp thức ăn đường phố, một phần lớn xã hội Việt Nam chuyên kinh doanh siêu nhỏ, có xu hướng sử dụng nhiều lao động, nhưng cần ít vốn đầu tư ban đầu. Do đó, một người độc thân - thường là phụ nữ - nấu một món ăn duy nhất và cố gắng bán món đó ở góc phố, hoặc bất cứ nơi nào có thể tìm được chỗ trống.
Tập quán kinh doanh theo mô hình "hiệp hội" các nhà cung cấp có thể được coi là giải quyết ít nhất hai vấn đề. Đầu tiên là phân chia lãnh thổ: khi có một không gian rộng lớn và nhiều nhà cung cấp muốn sử dụng nó, họ có thể chia sẻ lãnh thổ và làm việc cùng nhau, thay vì chiến đấu để giành phần thắng lợi trước những người khác. Vấn đề thứ hai là đa dạng hóa nguồn cung. Nếu một khách hàng cần mua một thứ gì đó (gạo, mì, đồ uống), họ có thể đến gặp người bán thứ họ đang tìm. Tuy nhiên, nếu hai hoặc nhiều người đi ăn cùng nhau, khả năng họ muốn ăn cùng một món sẽ giảm đi và nhóm có thể chọn đến một nhà hàng lớn hơn để họ có nhiều lựa chọn hơn. Tuy nhiên, một hiệp hội các nhà cung cấp cho phép mỗi người cung cấp cho khách hàng một thực đơn đầy đủ các món ăn và đồ uống đa dạng, điều này làm tăng cơ hội thu hút khách hàng cả cá nhân và tập thể.
Khi một không gian được tạo sẵn để giao dịch, nó sẽ bị chiếm dụng bởi một số doanh nhân siêu nhỏ, mỗi doanh nghiệp chuyên về một sản phẩm duy nhất. Một người sẽ bán chả giò, một người sẽ chuẩn bị cơm rang, một tô mì, một thức uống khác (trà đá, nước trái cây). Số lượng người bán trong hiệp hội càng lớn thì khả năng cung cấp các mặt hàng khác nhau càng rộng. Mỗi doanh nghiệp chiếm một phần nhỏ không gian có sẵn và đôi khi sẽ đặt bàn ghế nhựa trong khu vực của họ để khách hàng sử dụng.
Khi khách hàng đến, mỗi quán sẽ cố gắng thu hút họ và mời họ ngồi vào khu vực được chỉ định của họ. Tuy nhiên, khi đã ngồi vào chỗ, khách hàng sẽ nhận được một thực đơn bao gồm tất cả các món ăn có sẵn để đặt từ mỗi nhà cung cấp cạnh tranh. (Ở những nghiệp đoàn cao cấp hơn, những người bán hàng chuẩn bị một thực đơn chung liệt kê tất cả các món có sẵn mà khách hàng có thể chọn. Ở những nghiệp đoàn kém tiên tiến hơn, thực đơn sẽ được cung cấp bằng miệng).
Các khách hàng đặt hàng của họ và người bán hàng mang đến tất cả các món ăn đã được đặt hàng. Một số sẽ được chuẩn bị bởi ‘chủ nhân’ của khu vực ngồi, những người khác, những người mà người bán không chuyên về sẽ được ‘mua’ từ một quầy khác. Các tài khoản sẽ được giữ để mỗi người bán sẽ tích lũy các khoản nợ và tín dụng với những người bán khác. Vào cuối ngày, số dư sẽ được tính toán và tất cả các khoản tín dụng và khoản nợ đã được thanh toán.
Những người tham gia vào cơ chế này không phải lúc nào cũng được liên kết bằng quan hệ gia đình, cũng không nhất thiết phải là những người quen biết lâu năm. Họ có thể chỉ đơn giản là thấy thuận tiện khi hợp lực với những người khác để tăng doanh số bán hàng. Mặc dù họ chỉ thu được lợi nhuận khi bán các món ăn của riêng mình, nhưng một liên minh sẽ thuận tiện vì hai lý do. Thứ nhất, nó cho phép những người bán hàng rong tăng số lượng khách hàng và do đó số lượng mặt hàng được bán ra tiềm năng. Thứ hai, nó cho phép họ bán các món ăn của chính họ thông qua các nhà cung cấp khác. Về lý thuyết, khách hàng có thể ngồi vào bàn của một nhà cung cấp nhưng không đặt hàng bất kỳ thứ gì mà nhà cung cấp cụ thể đó sản xuất, trong trường hợp này, chỉ các nhà cung cấp khác được hưởng lợi từ khách hàng cụ thể đó. Trong một tình huống phức tạp hơn, nhà cung cấp có thể được giảm giá khi mua hàng từ đồng nghiệp của họ, do đó, trên thực tế, anh ta kiếm được một khoản lợi nhuận nhỏ ngay cả khi anh ta không bán sản phẩm của chính mình. Trong các trường hợp khác, có đi có lại đơn giản: Tôi bán các món ăn của bạn cho khách hàng của tôi mà không phải trả thêm phí và bạn sẽ bán món ăn của tôi sau này, khi họ đến gặp bạn và đặt hàng những món do tôi sản xuất.
Tuy nhiên, chương trình không có rủi ro và xung đột có lẽ là mối quan tâm chính. Ví dụ: nếu các tài khoản trong ngày được lưu giữ bằng miệng, các nhà cung cấp có thể không đồng ý về số tiền tín dụng hoặc ghi nợ mà họ đã tích lũy với các nhà cung cấp khác. Sự bất đồng này có thể leo thang thành một cuộc chiến giữa các nhà cung cấp mệt mỏi vào cuối ngày hoặc trong một cuộc xung đột mang lại những hậu quả lâu dài hơn như sự kỳ thị và bị gạt ra bên lề xã hội, khiến họ phải tìm kiếm một liên minh khác ở nơi khác. Tuy nhiên, khi mô hình đem lại hiệu quả, nó sẽ giúp gắn kết người bán và tạo cho họ một lợi thế cạnh tranh nhất định vì nó khai thác cơ chế hợp tác xã, nơi mọi người cùng góp vốn và lao động, và lợi nhuận được chia ít nhiều đều cho những người tham gia.
Xem bản dịch tiếng Anh: You need friends when trading